Xin được gởi đến tất cả các bạn phần hồi-ký cuả DS Lâm định Hướng, một người bạn học rất nổi tiếng trong lớp về trí nhớ siêu-phàm. Anh có thể đọc một câu truyện, sau đó có thể kể lại vanh-vách, thiêú điều không thiếu,ngay cả một dấu phẩy.
Anh hiện đã về hưu, do bị bệnh Parkinson khởi phát khá lâu.
Phần Hồi-ký này sẽ được trích đăng thành nhiều kỳ.
Lời ngỏ :
Hiện tại (present) là quà tặng. Enjoy it, ok !
Tôi nhớ về quá khứ thì cũng là 1 cách enjoy.
“Ký ức LẬP LOÈ” chỉ là 1 chút ánh sáng đom đóm lập loè, tất nhiên có nhiều sai sót, xin bạn vui lòng bỏ qua và chỉ dẫn giùm.
Phần 1
DƯỢC KHOA ĐẠI HỌC ĐƯỜNG SÀIGÒN (1972-1975)
1.1. Năm thứ Nhất Dược khoa (nk 72-73).
Mùa Hè đỏ lửa 1972!
Kỳ thi Tú Tài II của năm 1972 chỉ còn 1 lần thay vì 2 lần như những năm trước. Và một số sinh viên của trường Dược cũng không được thi lại kỳ 2 mà ... được ở lại lớp.
Kỳ thi tuyển vào Dược Khoa Đại Học Đường năm đó là cuộc cạnh tranh của khoảng 5.000 thí sinh để chọn 200 người.
TRƯỜNG DƯỢC, ngày xưa.
(hình chưa được xin phép chủ nhân, xin lượng thứ)
Ngày thi của Đại Học Dược Khoa hình như trễ nhất (có lẽ cuối tháng 8) và diễn ra rất nhanh với 3 môn thi, mỗi môn 10 câu trong 30 phút: Vạn Vật và Lý Hoá (Lý Hoá hồi đó kễ chung là 1 môn và chỉ1 giáo sư), hệ số 2, Anh hoặc Pháp ngữ hệ số 1.
Môn sinh ngữ có 10 câu dịch ngược, Hướng vẫn nhớ câu đầu tiên là « Những thống kê y khoa chứng tỏ rằng hút thuốc có hại cho sức khoẻ và là nguyên nhân của nhiều căn bệnh hiểm nghèo ». Có 1 câu có tính « thời sự » riêng tư « Chương trình mới của Đại Học Dược Khoa nhằm đào tạo... », ý ẹ, quên rồi !
Điểm tối đa sẽ là 100.
A ! Có kết quả rồi đây. Trên hết là Văn thạc Đức 79,50 điểm. Dòng tiếp theo là Dương hoàng Giáp 78,75 điểm. Người hạng Ba là 78 điểm, có lẽ là Dương hồng Đạo.
Bạn Dương hồng Đạo hạng rất cao, phải là hạng Ba, hạng Tư gì đó. Bạn Giáp đạt hạng cao, cũng có một phần lý do là đã « hơi quen » với những câu đề thi vì đi học luyện thi « đúng ổ ».
Văn thạc Đức học bên Pháp văn và chỉ học chung 1 năm rồi « nhảy vào » Y Khoa.
Lâm định Hướng được 56 điểm và hạng 144 ; trong khi Trần thủ Hoà 65 điểm và hạng 56 (hình như vậy).
Cuối bảng là 2 người đồng hạng 200 với 53 điểm, 1 trong 2 người đó là Lâm thanh Phong, cựu học sinh Petrus Ký, thủ khoa Nông Lâm Súc mùa đó.
Với 201 người trong danh bạ 1972, thế mà có đến khoảng 30 người chữ H : .... Đoàn thị Hương 72H20, Trần thủ Hoà 70H21, Lâm định Hướng 72H22, Nguyễn thị Hoàn 72H23 (hình như thế).... Thầy Tổng Thư Ký Huỳnh văn Quí nói, nghe có hơi lạ lạ, « Sao nhiều chữ H vậy » . (Người con của Thầy Quí là Huỳnh văn Hùng cũng dự thi mùa đó mà không đậu).
-Thầy Khoa Trưởng là Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn vĩnh Niên, là Khoa Trưởng liên tục 4 nhiệm kỳ (63-66....72-75), có 3, 4 bằng Cử Nhân (nghe nói vậy), là 1 «tự điển sống» trong lãnh vực sinh học (nghe nói vậy !).
-Khoa Phó là Thầy Đặng vũ Biền, trên «cours» của môn Vật Lý luôn nêu rõ «Tiến sĩ Vật lý», Thầy dặn ghi như vậy.
-Giáo Sư Tiến Sĩ Võ phi Hùng phụ trách «Giám Học» hay «Học Vụ» gì đó. Thầy Hùng dạy cả 4 lớp : Dược 1, Dược 2 học Hoá Hữu Cơ, Dược 3, Dược 4 học Hoá Dược.
Thời đó, nếu học xong Dược Sĩ, học nữa thì sẽ là «Tiến sĩ đệ tam cấp» và «Tiến sĩ quốc gia». Chuyện còn xa tít .... !
Lớp Dược 1 cũng nhanh chóng tổ chức bầu chọn 3 người vào « Ban Đại Diện Sinh Viên ». Có 7 hay 8 người ứng cử và 3 người đắc cử là :
--Nguyễn thị Kim Phụng, nữ sinh Gia Long, được hơn 80 phiếu.
--Nguyễn tài Chí, ở Thủ Đức, hơn 60 phiếu.
--Đặng thị Nữ , dân Mỹ Tho, hơn 50 phiếu, (Năm sau, Nữ «bay qua» Nha khoa).
Trường công hồi đó hoàn toàn không phải đóng học phí, chỉ đóng tiền của các phòng thực tập. Phòng Bào Chế Cổ Truyền « khui hụi » 1.800 đồng (hay là 2.000 đ ?, «tê quá» !). GS Nguyễn bỉnh Tiên là Trưởng Bộ môn và GS Trần xương Văn là Trưởng phòng thực tập.
Sinh viên năm thứ Nhất nhanh chóng làm quen với Thầy Võ phi Hùng (Hoá hữu cơ), Thầy Đặng vũ Biền (Vật lý) .
Thầy Đặng Vũ Biền và Thầy Võ Phi Hùng
Mấy môn này được học trong 2 lớp Dược 1, Dược 2 ; vì vậy, nếu năm nay Dược 1 và Dược 2 cùng học «nửaA » của chương trình thì năm sau 2 lớp Duợc 1, Dược 2 sẽ học «nửa B» ; nếu bạn bị ở lại thì năm sau bạn phải học những bài khác.
Môn «Sinh học động vật» học với cô gì đẹp đẹp, Nhớ nhất là cái vụ gien trội gien lặn, cô nói là "cô gái đó thực chất là da màu nhưng lúc cô ta thì đó là GIEN LẶN, vì vậy, không dám có con, vì nếu có con sẽ có thể là DA MÀU , sẽ bị NGHI LÀ NGOẠI TÌNH".
(Đã hỏi Quốc Thắng và Thắng «nhắc» là học ở Giảng đường 3 với cô Châu thị Thanh Thuỷ).
Các sinh viên cũng dần dần làm quen với nhau ; tuy nhiên, thời đó «rào cản» nam nữ còn rất lớn, cho nên chỉ hình thành những nhóm nam hoặc nhóm nữ. Tỷ lệ «kết đôi» không đến 10%: bạn Lý thoại Đường ở lại lúc cuối năm thứ Nhất nhưng vẫn gắn bó với bạn Phạm thị Việt Hương và xứng đáng để nhận «THÂM NIÊN TÌNH YÊU» của lớp chúng ta !
Có ai được đề cử vào giải này nữa không ta? Cặp đôi khác có thâm niên rất cao là Trần minh Chính («Chính cào cào», tiệm hình Mỹ Ngọc ở đường Lê văn Duyệt Gia Định, gần tới ngả 3 Tô hiến Thành –CMT8 hiện nay) và Nguyễn thị Lan («Lan rừng», ở gần cuối đường Hồng ThậpTự).
Việc học lý thuyết thì hoàn toàn tự do thoải mái, không cần vào lớp. Vì vậy mới có chuyện «thật như bịa» thế này: «Sinh viên Z chuyên môn trốn giờ lý thuyết. Hôm đó Z vào lớp IN TIME hay ON TIME gì đó. Thế rồi có thông báo Thầy nghỉ». !!
Các
phòng thực tập (TP = travaux pratiques) đều có điểm danh và thường là
không được nghỉ quá 20% (nếu 10 buổi thì có thể nghỉ tối đa 2 buổi).
Thực ra, sinh viên ít dám nghỉ thực tập vì nếu nghỉ thì làm sao thi cho được?
Phòng Bào Chế Cổ Truyền còn sợ có chuyện “đi học giùm” (điểm danh giùm) nên đã dán hình vào từng phiếu (mỗi phiếu là 1 bàn 10 người).
Trong buổi “chào sân” của Phòng BCCT, Vân Khanh đã “được” mời dùng ống pipette để nhỏ giọt – sau khi mọi người đã cùng được nghe nhìn - . Trước hàng trăm cặp mắt mà cái bà Khanh này không chút bối rối, “1, 2, 3 …. 9, 10” ngon ơ! “Cô giáo” hơi cười cười và ra lệnh “5 giọt nữa!”. Xong ngay!
Có khoảng 80 người bên sinh ngữ Pháp, lớp Dược 1 học Pháp văn với Thầy Nguyễn văn Lương. Buổi điểm danh đầu tiên, Thầy yêu cầu các học trò khi nghe gọi tên thì đứng lên và cho biết là “trường Pháp”, hay “trường công”, hay “trường tư”.
Giờ Pháp văn của Thầy Lương rất là “đặc biệt”. Có bữa Thầy viết lên bảng “Passé composé” để rồi “VENI, VIDI, VINCI”…để rồi đến cuối giờ không có chữ nào trong tập! Có bữa thầy hỏi “Ở sa mạc mặc áo gì?” và chính là Văn thạc Đức trả lời được “Áo len”. Có bữa Thầy đem máy quay đĩa vào cho lớp “thưởng thức”. Gần hết thời gian thì một bạn của “giờ sau” (lớp Pháp văn cũng chia làm 2 nửa, mỗi “lớp” chỉ còn khoảng 40) lò dò vào lớp. Thầy nói “Tội nghiệp cô này, cho nghe lại từ đầu”. Chúng ta hồi đó ngoan quá là ngoan, có ai ý kiến ý cò gì đâu!
Thầy cũng hay mắng: “Cô này học dốt quá, về lấy chồng đi”. (bạn có hiểu không?).
Hình như sau 3 lần điểm danh, Hướng tôi thuộc tên khoảng 40 bạn. (Tục ngữ nói là “kẻ cố tình thì rình trong bụi, kẻ vô tình cứ lủi thủi đi”.)
Một ngày nọ, Hoà hỏi Hướng “Mày biết ai có tên chữ O không?”. Đáp án được đưa ra ngay lập tức. Hoà kể lại cho Thắng nghe vụ “O O”(3 thằng cùng là Pháp văn mà O. cũng Pháp văn), với lời bình “thằng Hướng nó biết nhiều người”.
Xin được tạm ngưng “bạn O.” và sẽ trở lại nói rõ hơn trong “Phần 2 – Đại Học Y Dược TpHCM , 1975-1978”
Lúc đó, Hướng cũng quen với Công Chính bên lớp Anh văn vì về chung đường. Nhà của Công Chính ở góc ngả tư Trương minh Ký – Nguyễn huỳnh Đức (cửa sau bên Nguyễn huỳnh Đức) còn Hướng thì ở hẻm 529 Nguyễn huỳnh Đức.
Nguyễn huỳnh Đức nay là Huỳnh văn Bánh. Trương minh Ký và đoạn đường phía trên là Trương minh Giảng thì hiện nay là Lê văn Sỹ.
Bạn Bùi tùng Hiệp đi xa hơn một chút, đến “Nhà thờ 3 chuông” thì quẹo vào Huỳnh quang Tiên, nay là Đặng văn Ngữ.
Nguyễn ngọc Quỳnh lại còn đi xa hơn “Nhà thờ 3 chuông” và vẫn là đường Trương minh Ký.
Trong hẻm 529 Nguyễn huỳnh Đức. có bạn Nguyễn bảo Thuận chỉ cách nhà Hướng khoảng 10 căn. Thỉnh thoảng đi ngang, (Hướng ở phía trong hẻm) thấy như gia đình bạn Thuận chơi 1 loại cờ có nhiều quân hình khối chữ nhật; có lẽ là “mạt-chược” (majhong, “mã tước”). Khoảng đầu năm 75 Hướng mới tiếp xúc với “mạt chược” và tháng 4/75 thì gia đình bạn Thuận đi nước ngoài; vì vậy, có phải là “mạt-chược” hay không, chỉ có bạn Thuận biết.
(Hướng cũng đã hỏi và bạn Thuận cho biết:
--không phải là “mạt-chược”, chỉ là 1 loại trò chơi gì đó.
--lúc tháng 4-75, GIA ĐÌNH của bạn Thuận vẫn ở đó nhiều năm nữa).
Quay lại với Công Chính, chính là Chính đã đưa ra “chính kiến” “kết nghĩa anh em”. “Bộ tứ” được hình thành:
Quốc Thắng sanh ngày 23-2-1953 (10 tháng Giêng Quý Tị) nên là “Đại ca”, Công Chính, 22-7-1953 được làm “Nhị ca”, Thủ Hoà 29-1-1954 (25 tháng Chạp Quý Tị, anh chàng này sẽ “2 tuổi” trước khi “đầy tháng”), là “Tam đệ”. “Tứ đệ” về phần Định Hướng, 6-11-1954.
Nhân việc bạn O, “Nhị ca” thường trêu ghẹo “O ó o o o”.
Về việc kết nghĩa anh em, cả năm sau, khi mà đám “tụ nghĩa Lương Sơn Bạc” lên tới con số 13 thì “chiếc ghế Đại ca” và “chiếc ghế Út đệ” vẫn không đổi. Không biết có bạn nào muốn thử đoán xem 9 người còn lại là ai, bạn cứ đọc đến hết năm thứ Nhì thì cũng tìm được 4 hay 5 tên nữa.
Ngay từ đầu năm học, Hướng cũng đã tìm hiểu xem bạn Thuý Minh “tướng tá” ra sao, vì trước đó Hướng đã nghe 1 người bạn của thời trung học nhắc đến tên Thuý Minh.
Thuý Minh người cao cao mà mũi cũng cao. Thúy Minh thường đi chung với Khánh Ngọc và đôi bạn này là “kiện tướng” học tập; trên bảng điểm lúc vào trường Dược hình như ở “top 20”.
Nhóm Gia Long, đi chung với Nguyễn thị Kim Phụng, còn có Nguyễn thị Cẩm (ở gần ngả 3 Hoà Hưng), Nguyễn thị Nam (hồi đó nhỏ nhỏ thôi), Nguyễn Bích Liên (cũng gầy gầy, hay mặc áo dài trắng, hình như Nam và Liên cùng ở Trần quang Diệu).v.v….
Năm thứ Nhất cũng nhanh chóng làm quen với một số cây thuốc trong Vườn Dược Liệu, nho-nhỏ như “Ích mẫu” (được đặt tên theo Sibéria –Leonurus sibiricus-), to đùng như “Ngọc lan” (“đặc sản” Chiêm Thành –Michelia champaca--).
Giờ học trong “Vườn Thuốc” di nhiên cũng bị chia thành từng “lớp nhỏ” và học một số buổi. Đến khi thi “Nhận mặt cây thuốc” thì người thi sau bị thiệt thòi vì “rau tươi thành rau héo”! (hơi khác !).
Cô Trần thị Đạo có kễ “một chuyện tình … không có hậu”:
“Trong ngày hội làng, ban tổ chức đưa ra câu đố :
--Mẹ thằng cùi là ai, giải ra 1 loại cây?
Cô gái tính xông lên khán đài thì chàng trai kéo lại. Khoảng nửa giờ trôi qua, có vài lời giải đáp mà trật lất.
Cô gái tức quá, giựt tay ra và băng băng chạy lên:
--Đó là cây Mẫu Đơn!
Cô gái được giải thưởng nhưng mất người yêu. Anh chàng đã “tự ái lãng xẹt” nên bỏ đi rồi, mẹ anh ta bị cùi!”.
Cô Trần thị Đạo cũng dạy trong Phòng BCCT cùng với Cô Nguyễn Tiên Mai Hương (con của Thầy Nguyễn Bỉnh Tiên), Phòng BCCT còn có 1 Cô cũng kiếng cận như Cô Hương nhưng mỏng hơn, hình như là Cô Mai; và có những Thầy Cô khác nữa (hì hì, nói “huề vốn”!).
Cô Đạo cũng rất nghiêm (có lẽ chỉ thua Cô Lâu) và lớp Dược 2 gặp lại Cô Đạo trong phòng Thực TậpThực Vật.
“Vườn Thuốc” cũng có gặp Thầy Nguyễn Bỉnh Tiên và Thầy nói chầm chậm từng chữ :
--Hoa Cacao mọc ở đâu?
Uớ, cái cây “Theobroma cacao” to đùng này – vừa có chất “cacao” vừa có chất “theobromine” hả?
Uớ, có thấy cái hoa nào đâu? Hay là “cây đực”??
--Hoa mọc trên thân.
Thì ra thế, hình như cây mít cũng thế.
Một vài tháng đầu tiên của năm thứ Nhất, Hướng còn làm thêm việc “lấy thuốc Tây”, làm thuê được 2.000 đ/ tháng. Ở OPV trên đường Nguyễn Huệ thì gặp bạn Lê văn Trạt, ở “Phan Nhàn” đường Phan thanh Giản (nay là Điện biên Phủ) thì gặp bạn Châu thị Mỹ. Gia đình bạn Mỹ là nhà thuốc Tây ở đường Phan đình Phùng (nay là Nguyễn đình Chiểu).
Có một bạn khác rất giống Châu thị Mỹ, đó là bạn Châu thị Tuý Hồng, khi thi lý thuyết thì hình như bạn Hồng ngồi cách Hướng 1 ghế (Hoà là H21, Hướng là H22, bạn Nguyễn thị Hoàn là H23, bạn Hồng là H24).
Trong năm thứ Nhất này, Hướng cũng đã phát hiện được có 2 chị em ruột học cùng lớp: Trương thị Thu Thu và Trương văn Tuấn.
Sinh viên lớp Dược 1 cũng được xử dụng kính hiển vi và được Thầy Thái Tường căn dặn thật kỹ về “ốc thô cấp, ốc vi cấp, vặn lên vặn xuống. Coi chừng nhầm lẫn làm bể LAME thì .. thi lại”.
Sinh viên Dược 1 cũng được chứng kiến việc tương kỵ giữa 2 nhóm máu A và B. Sau khi một ít bạn đã xung phong thử máu, đã biết là Quốc Thắng (cho phép tiết lộ) thuộc nhóm máu A (nhóm máu “nghệ sĩ”), thế là lấy gịọt máu nhóm B (nhóm máu “doanh nhân, quân nhân”) của bạn “không được tiết lộ”; “bùm”, máu đã đông như “tiết canh”.
Đến ngày thi của môn Thực Tập Sinh Học Động Vật này, khi chờ vào thi thì bạn Nguyễn Ngọc Quỳnh (con trai à nhe) nhìn thấy 2 con thằn lằn rượt nhau và nằm lên nhau. “Trạng Quỳnh” bèn tự “đoán điềm giải mộng”, lật sách ra xem kỹ về “Bộ phận sinh dục”. Đoán trúng mới độc! Quỳnh hứng chí mới kể lại đó nghe!
Việc thi cử trong cả 2 lục cá nguyệt sẽ quyết định lên lớp hay ở lại lớp:
-Phần lý thuyết mỗi năm là 8-10 môn; phải đạt điểm trung bình 10/20 và không bị điểm loại (có 2 môn dưới 9 hoặc 1 môn dưới 5) . Nếu đã bị “điểm loại” thì những môn nào dưới 10 điểm đều phải thi lại.
-Phần thực tập cũng có điểm loại y như vậy (1 điểm < 5 hoặc 2 điểm < 9). Số môn thực tập ít hơn số môn lý thuyết và điểm thi của phòng thực tập có thể là “thật” hay “giả”, nếu bạn được 9 điểm thì vẫn có thể là thực ra bạn chỉ được 7 hay 8 điểm nhưng Phòng đã “tránh” cho bạn khỏi bị “điểm loại” (vì Phòng cũng không mong gặp lại bạn).
---Ủa, sao rành quá vậy Hướng, bộ rớt hả?
---Xí, “còn lâu”!
Kết quả kỳ thi cuối năm thứ Nhất, chỉ biết là 1 bạn đậu BÌNH (điểm trung bình tất cả là từ 14/20) là Phạm Khánh Ngọc và 32 bạn đậu BÌNH THỨ (12 điểm trở lên).
Chỉ những bạn thi lại mới nhìn thấy CHI TIẾT để biết NHỮNG MÔN DƯỚI 10 (THI LẠI), “bảng” này ngắn thôi.
Từ khoảng 30 người đậu BÌNH khi vào trường (điểm 70/100) , sau 1 năm chỉ còn “ĐỘC” Bình.
Hoà và Hướng cứ “cãi nhau” : --Tao hạng 32, mày hạng 33. (Hướng thì có “tiến bộ”; từ 11,2 điểm đã tiến vào vùng 12,0 đến 13, 9, trong số 32 “em” Bình Thứ).
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment